Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tháng 10/2025 ước đạt 1,14 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 10 tháng đầu năm 2025 đạt 9,31 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong đó, Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 20%, 17,4% và 15,1%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 9 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Trung Quốc tăng 34,6%, thị trường Mỹ tăng 6,2%, thị trường Nhật Bản tăng 11,2%.
Ngành thủy sản đứng trước nhiều khó khăn vào cuối năm
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thủy sản trong quý III/2025, được phản ánh trong kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp với phần đa đều ghi nhận lợi nhuận cải thiện, thậm chí có doanh nghiệp báo lãi tăng bằng lần.
Mặc dù quý III/2025 có nhiều điểm tích cực đối với ngành thủy sản, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) cho rằng, vẫn còn nhiều thách thức trong thời gian tới. Thuế đối ứng mới từ Mỹ, cùng các quy định nghiêm ngặt hơn về truy xuất nguồn gốc và bảo vệ động vật có vú biển, đang trở thành thách thức lớn nhất cho hoạt động xuất khẩu trong quý IV/2025 và năm 2026.

Sự tăng trưởng của xuất khẩu thủy sản trong quý III/2025, được phản ánh trong kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp với phần đa đều ghi nhận lợi nhuận cải thiện, thậm chí có doanh nghiệp báo lãi tăng bằng lần.
Đồng thời, thẻ vàng IUU của EU vẫn chưa được gỡ bỏ, khiến nhóm hàng hải sản khai thác tiếp tục gặp khó khi tiếp cận các thị trường cao cấp. Bên cạnh đó, biến động tỷ giá, chi phí logistics tăng trở lại, và sự cạnh tranh từ các đối thủ như Ấn Độ, Ecuador, Indonesia đang tạo sức ép lớn lên lợi nhuận của doanh nghiệp Việt Nam.
Dù vậy, VASEP cho rằng trong khó khăn vẫn tồn tại nhiều cơ hội chiến lược. EU đã có động thái nới lỏng một số rào cản kỹ thuật với thủy sản nuôi trồng Việt Nam, mở ra dư địa tăng trưởng mạnh cho tôm và cá tra.
VASEP dự báo quý IV/2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ chững lại mạnh, đạt khoảng 2,19 tỷ USD, giảm hơn 22% so với cùng kỳ, do tác động của thuế đối ứng 20% và nguy cơ áp thuế cao đối với tôm vào Mỹ.
Theo đó, tôm và cá tra, hai mặt hàng chủ lực, dự kiến giảm tốc, trong khi cá ngừ, mực, bạch tuộc sụt sâu do tác động của thẻ vàng IUU và lo ngại quy định nguồn gốc và bảo vệ động vật có vú biển có hiệu lực từ đầu 2026. Ngược lại, EU và Trung Quốc vẫn duy trì nhu cầu ổn định, là điểm tựa chính giúp kim ngạch cả năm 2025 ước đạt 10,5 tỷ USD, tăng khoảng 5% so với năm 2024.
Xu hướng thận trọng ở các doanh nghiệp thủy sản
Để ứng phó với bối cảnh thị trường nhiều biến động, các doanh nghiệp thủy sản đã bước vào giai đoạn chuẩn bị cho mùa cao điểm tiêu thụ cuối năm. Thay vì mở rộng sản xuất như các năm thuận lợi, chiến lược năm nay được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn. Theo đó, phần lớn hàng tồn kho ghi nhận giảm, song số còn lại một số doanh nghiệp lại ngược chiều tăng dự trữ.

Để ứng phó với bối cảnh thị trường nhiều biến động, các doanh nghiệp thủy sản đã bước vào giai đoạn chuẩn bị cho mùa cao điểm tiêu thụ cuối năm.
Theo đó, Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta (Fimex; HoSE: FMC) ghi nhận chỉ số hàng tồn kho đạt 652 tỷ đồng tính đến ngày 30/9/2025, giảm 34% so với số đầu kỳ. Trong đó, công ty không còn ghi nhận phần hàng gửi đi bán và hàng mua đang đi trên đường. Bên cạnh đó, giá trị thành phẩm của công ty cũng ghi nhận sụt giảm 9% xuống còn 8%. Với tổng tài sản ở mức 4.840 tỷ đồng, hàng tồn kho của Sao Ta chiếm khoảng 13% cơ cấu.
Đi cùng với xu hướng trên, Công ty Cổ phần Nam Việt (HoSE: ANV) ghi nhận 1.495 tỷ đồng hàng tồn kho tính đến cuối tháng 9/2025, giảm 10% so với đầu năm; chiếm 26% tổng tài sản. Trong đó ghi nhận chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang đạt 427 tỷ đồng, giảm nhẹ so với số đầu năm. Bên cạnh đó, hàng gửi đi bán ghi nhận giảm mạnh từ 43 tỷ đồng đầu năm xuống chỉ còn 4,5 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn (HoSE: VHC) cũng ghi nhận xu hướng giảm, song không ở mức lớn như các doanh nghiệp trên. Cụ thể, hàng tồn kho tại ngày 30/9/2025 của "nữ hoàng cá tra" đạt 2.728 tỷ đồng, giảm 6% so với đầu năm; chiếm 14% tổng tài sản. Trong đó, hàng đang đi trên đường ghi nhận sụt giảm từ 495 tỷ đồng đầu năm xuống còn 202 tỷ đồng, tương đương giảm 59%.
Trái ngược lại, một số doanh nghiệp lại có xu hướng tăng tích lũy hàng tồn kho, như một sự chuẩn bị trước nguồn cung cho mùa lễ hội và cao điểm vào cuối năm. Theo đó, Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (UPCoM: MPC) ghi nhận tổng tài sản đạt 10.350 tỷ đồng. Trong đó, chỉ số hàng tồn đạt 4.580 tỷ đồng, tăng 16% so với số đầu năm; chiếm 44% tổng tài sản.
Cụ thể, giá trị nguyên vật liệu đạt 866 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với đầu năm. Trong khi đó, chi phí thành phẩm, hàng hóa ở mức 3.514 tỷ đồng. Đáng nói, nếu so sánh với các doanh nghiệp thủy sản cùng ngành, đây là doanh nghiệp đang dự trữ hàng tồn kho lớn nhất và cũng chiếm cơ cấu nhiều nhất so với tổng tài sản.
Bên cạnh đó, Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đa quốc gia IDI (HoSE: IDI) cũng ghi nhận tăng trữ hàng tồn kho với 1.315 tỷ đồng, tăng 7%, chiếm 14% tổng tài sản. Trong đó, chi phí thành phẩm ghi nhận tăng 7% lên 737 tỷ đồng. Đồng thời, hàng hóa đạt 528 tỷ đồng, tăng 6%.
Theo VASEP, tình hình xuất khẩu thủy sản đến quý I/2026 được dự báo tiếp tục giảm, do tác động dây chuyền từ thuế và nguồn gốc và bảo vệ động vật có vú biển. Từ quý II/2026 trở đi, tốc độ phục hồi sẽ phụ thuộc vào khả năng Việt Nam tháo gỡ các rào cản thuế, IUU, cùng với việc đa dạng hóa thị trường và nâng tỉ trọng hàng chế biến giá trị cao.
Link nội dung: https://thoibaovietnam.net/sap-den-mua-cao-diem-doanh-nghiep-thuy-san-dieu-chinh-hang-ton-kho-the-nao-a180325.html