Để đầu tư công “tiếp sức” cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số

Trong giai đoạn mới, đầu tư công tiếp tục giữ vai trò quan trọng như một “đòn bẩy” để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, với tốc độ GDP kỳ vọng đạt mức tăng trưởng hàng năm 2 con số.

Trong những năm gần đây, nhất là từ sau đại dịch Covid, đầu tư công ngày càng cho thấy vai trò động lực chủ yếu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trở thành kênh dẫn dắt phục hồi sản xuất, thúc đẩy tổng cầu và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô. 

Nguồn vốn này không chỉ giúp hoàn thiện kết cấu hạ tầng then chốt mà còn tạo môi trường, nền tảng cho thu hút đầu tư tư nhân và FDI, lan tỏa tới nhiều ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.

Thực tế, dự toán đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được phân bổ ở mức cao kỷ lục, phản ánh vai trò quan trọng và ngày càng được củng cố của khu vực công trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, việc giải ngân chưa đạt như kỳ vọng tại nhiều bộ, ngành, địa phương; không ít dự án còn vướng mắc về thủ tục, mặt bằng, năng lực triển khai, dẫn đến chậm tiến độ, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Dẫn số liệu từ Cục Thống kê, PGS.TS Phạm Văn Hùng – Trưởng Khoa Đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân đánh giá, tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong thời gian qua vẫn còn hạn chế và là một vấn đề cần khắc phục trong thời gian tới (năm 2021 đạt 95,7%, năm 2022 đạt 91,42%, năm 2023 đạt 93,12%, năm 2024 đạt 93,06%, năm 2025 (tính đến ngày 18/12/2025) đạt 66,1% kế hoạch). 

Điều này cho thấy dư địa nâng cao hiệu quả thực thi đầu tư công còn lớn và đòi hỏi các giải pháp mạnh mẽ hơn trong công tác điều hành, tổ chức thực hiện.

Để đầu tư công “tiếp sức” cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số - Ảnh 1.

Về chất lượng tăng trưởng, giai đoạn 2011–2024 ghi nhận cải thiện tích cực khi chỉ số ICOR giảm mạnh, phản ánh hiệu quả đầu tư đang dần nâng cao. Tuy nhiên, mức độ tác động của đầu tư công vẫn thấp hơn so với đầu tư tư nhân, cho thấy dư địa cải thiện hiệu quả sử dụng vốn công còn lớn. 

Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải cải cách toàn diện trong quy trình phân bổ, thực thi và giám sát đầu tư công, nhằm bảo đảm nguồn lực được sử dụng hiệu quả, đúng trọng tâm và tạo ra giá trị gia tăng cao.

Một thách thức lớn hiện nay là liên kết vùng và cấu trúc không gian kinh tế còn phân mảnh, hạ tầng logistics chưa đồng bộ khiến chi phí lưu thông hàng hóa cao. 

Tỉ lệ chi phí logistics của Việt Nam hiện ở mức 16–17% GDP, vượt đáng kể mức trung bình ASEAN (12–13%). Kinh nghiệm các nước Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc) cho thấy, khi đầu tư công được ưu tiên cho hành lang kinh tế, hạ tầng liên vùng, cảng cạn, trung tâm logistics, hiệu quả phân bổ nguồn lực và năng suất toàn nền kinh tế tăng lên rõ rệt.

Vai trò "kiến tạo" trong bối cảnh mới

Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững giai đoạn 2026–2030, với tốc độ GDP kỳ vọng đạt mức tăng trưởng hàng năm 2 con số. Để đạt được mục tiêu này, việc phát huy tối đa vai trò của đầu tư công là hết sức cần thiết, không chỉ về mặt quy mô mà còn về chất lượng, hiệu quả và định hướng chiến lược.

Theo PGS.TS Phạm Văn Hùng, trong bối cảnh chuyển đổi sang mô hình tăng dựa vào đổi mới sáng tạo, đầu tư công cần đóng vai trò dẫn dắt chiến lược trong các lĩnh vực ưu tiên như công nghệ cao, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, phát triển hạ tầng xanh, chống biến đổi khí hậu và thích ứng với rủi ro thiên tai.

Thay đổi tư duy về đầu tư công, đầu tư công phải có ý nghĩa "kiến tạo" cho phát triển và dẫn dắt đầu tư của nền kinh tế theo yêu cầu mới của bối cảnh mới, kỷ nguyên mới. Do đó, cần xây dựng các danh mục định hướng đầu tư ưu tiên ở cấp quốc gia và vùng lãnh thổ, làm căn cứ để rà soát và so sánh các dự án được đề xuất. 

Đồng thời, việc xác định chủ trương đầu tư công cần gắn chặt với các mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết, từ đó hình thành một hệ thống đầu tư công không chỉ tối ưu về mặt kinh tế mà còn bền vững về môi trường và xã hội.

Để đầu tư công “tiếp sức” cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số - Ảnh 2.

Đầu tư công được nhìn nhận như một loại “vốn mồi” quan trọng, có vai trò dẫn dắt và kích hoạt các nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào nền kinh tế.

Cần ưu tiên đầu tư vào các dự án có tính lan tỏa cao, không nên dàn trải mà cần tập trung vào các lĩnh vực có khả năng kích thích cầu liên ngành, tạo chuỗi liên kết đầu vào – đầu ra với khu vực tư nhân, qua đó khuếch đại tác động của đầu tư công lên tổng cầu.

Cụ thể, PGS.TS Phạm Văn Hùng cho rằng cần tăng cường đầu tư công vào nghiên cứu – phát triển (R&D) và công nghệ cao như bán dẫn, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và kinh tế số để tạo ra động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy năng suất lao động và giá trị gia tăng toàn nền kinh tế.

Bên canh đó, cần tiếp tục tận dụng đầu tư công để nhanh chóng hoàn thiện mạng lưới giao thông cao tốc, đô thị thông minh và hạ tầng năng lượng, tạo ra các cực tăng trưởng và liên kết vùng hiệu quả. Việt Nam cần tiếp tục ưu tiên đầu tư vào các công trình hạ tầng chiến lược, nhất là kết nối liên vùng, hạ tầng logistics, và hạ tầng phục vụ chuyển đổi số.

Đặc biệt, đầu tư công cần được ưu tiên cho giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Cần đẩy mạnh đầu tư công cho các cơ sở giáo dục kỹ thuật, đào tạo lại lực lượng lao động và tăng cường kỹ năng số.

Trong xu hướng phát triển xanh và bền vững, Việt Nam cũng cần định hướng đầu tư công vào năng lượng tái tạo, đô thị xanh, giao thông thân thiện với môi trường và hạ tầng chống biến đổi khí hậu.

Cũng theo chuyên gia này, cần sớm thiết lập các tiêu chí phân bổ vốn dựa trên năng lực hấp thụ của địa phương, nhu cầu đầu tư thực tiễn và hiệu quả định lượng của từng dự án. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý đầu tư công theo hướng hiện đại và minh bạch hơn, đẩy mạnh số hóa toàn bộ quá trình quản lý đầu tư công, ứng dụng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong đánh giá hiệu quả dự án theo thời gian thực; đồng thời thiết lập thể chế giám sát độc lập và cơ chế phản hồi chính sách linh hoạt.

Đề xuất chuyển từ ưu tiên tỉ lệ giải ngân sang đánh giá hiệu quả vòng đời dự án

Theo TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, đầu tư công không chỉ đơn thuần là một công cụ để kích thích tổng cầu trong ngắn hạn mà quan trọng hơn, đây chính là đòn bẩy để cải thiện năng suất và năng lực cạnh tranh dài hạn cho quốc gia.

Theo chuyên gia này, trong giai đoạn 2010 – 2024, cứ mỗi 1% GDP vốn đầu tư công tăng thêm sẽ đóng góp 0,2% vào tăng trưởng GDP trong năm đầu tiên và tạo ra hiệu ứng lan tỏa lên tới 0,85% trong bốn năm tiếp theo. Những con số này cho thấy sức mạnh lan tỏa của đầu tư công là vô cùng lớn, đóng vai trò dẫn dắt cho toàn bộ dòng chảy kinh tế.

Hiện tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm khoảng 33% GDP. Trong đó, vốn đầu tư công góp khoảng 10%, tương đương 28% cơ cấu tổng vốn đầu tư xã hội. 

Theo TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, nếu trong một kịch bản giả định, nếu GDP thực tăng 10% và lạm phát ở mức 4% vào năm 2026 thì quy mô nền kinh tế có thể đạt hơn 14 triệu tỷ đồng theo giá hiện hành. Khi đó, theo kế hoạch của Chính phủ nhằm đưa tổng vốn đầu tư xã hội lên mức 40% GDP, Việt Nam sẽ cần khoảng 5,8 triệu tỷ đồng, với phần vốn đầu tư công tương đương khoảng 1,65 triệu tỷ đồng.

Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng, bài toán thực sự không nằm ở quy mô vốn mà nằm ở hiệu quả sử dụng vốn, được đo lường qua hệ số ICOR (chỉ số cho biết cần bao nhiêu đồng vốn để tạo ra một đồng sản lượng tăng thêm, số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp). Theo đó, hiện hệ số ICOR bình quân của Việt Nam giai đoạn sau đại dịch là 5,85, một mức khá cao phản ánh hiệu quả sử dụng vốn còn thấp.

Để đầu tư công “tiếp sức” cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số - Ảnh 3.

TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright.

Đồng thời, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cũng đưa ra một cảnh báo mạnh mẽ rằng nếu hiệu quả sử dụng vốn vẫn giữ ở mức 5,85, chúng ta sẽ phải đẩy quy mô đầu tư xã hội lên tới hơn 47% GDP mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 10%. Đây là một áp lực rất lớn đối với nền kinh tế và nếu chỉ cố tăng quy mô để bù đắp sự kém hiệu quả, nền kinh tế sẽ giống như một "lâu đài cát" dễ bị ảnh hưởng lớn bởi những cơn sóng biến động vĩ mô.

Thay vào đó, một kịch bản khả thi hơn là duy trì mức đầu tư xã hội khoảng 40% GDP nhưng phải quyết liệt cải thiện hiệu quả, đưa hệ số ICOR xuống mức dưới 5. Thực tế trong 15 năm qua, hệ số ICOR của Việt Nam chưa bao giờ xuống dưới mức 4 và hiện vẫn đang ở mức hơn 5,7 mặc dù đã có những tín hiệu giảm tích cực từ năm 2023.

Hơn 360.000 tỷ đồng vốn đầu tư công đang chờ giải ngânThủ tướng: Kinh tế số là động lực, xã hội số là nền tảng, con người làm trung tâm

Một kiến nghị mà TS Đỗ Thiên Anh Tuấn nhấn mạnh chính là việc chuyển trọng tâm quản lý từ ưu tiên tỷ lệ giải ngân sang đánh giá hiệu quả trong suốt vòng đời của dự án. 

Thay vì chỉ nhìn vào các con số giải ngân hàng năm như một chỉ số KPI duy nhất, các cơ quan quản lý cần chú trọng hơn vào giá trị hiện tại ròng (NPV) về mặt kinh tế của dự án, đảm bảo rằng các quyết định đầu tư dựa trên tính toán khoa học thay vì nhận định cảm tính.

Chuyên gia này cũng kêu gọi sự dứt khoát trong công tác giải phóng mặt bằng, bởi chi phí cơ hội của sự chậm trễ thường lớn hơn rất nhiều so với những khoản chênh lệch bồi thường nhỏ mà các dự án vẫn thường sa đà vào đàm phán.

Cuối cùng, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng cần phải tăng cường cơ chế điều phối liên ngành, liên vùng để tạo ra các "mạng lưới dự án" có sức cộng hưởng lớn. Việc củng cố kỷ luật ngân sách, tích hợp chi phí vận hành vào quyết định đầu tư và tăng cường năng lực quản lý rủi ro tài khóa là những bước đi không thể thiếu để đầu tư công có thể trở thành bệ phóng vững chắc đưa kinh tế Việt Nam bứt phá trong giai đoạn tới.

Link nội dung: https://thoibaovietnam.net/de-dau-tu-cong-tiep-suc-cho-muc-tieu-tang-truong-2-con-so-a185661.html