Ngày 11/12, tại chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Phục hồi, phá sản với 8 chương, 88 điều, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2026.
Luật này quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thủ tục phục hồi, phá sản; quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản.
Luật quy định ưu tiên áp dụng thủ tục phục hồi đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Bảo đảm thủ tục phục hồi, phá sản kịp thời, hiệu quả; hài hòa lợi ích, tối ưu giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Bảo đảm công khai, minh bạch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về chính sách của Nhà nước trong phục hồi, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, Luật quy định, Nhà nước có chính sách hỗ trợ về thuế, phí, tín dụng, lãi suất, đất đai, công nghệ, chuyển đổi số và các biện pháp hỗ trợ khác cho doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn trong kinh doanh thực hiện thủ tục phục hồi, phá sản nhằm tái cơ cấu, khôi phục hoặc chấm dứt hoạt động kinh doanh một cách có trật tự, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, lành mạnh hóa nền kinh tế.

Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Phục hồi, phá sản (Ảnh: Media Quốc hội).
Căn cứ vào khả năng cân đối nguồn lực của Nhà nước ở từng thời kỳ, Chính phủ trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ hoặc để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong phục hồi, phá sản.
Chi phí phục hồi, phá sản được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phục hồi, phá sản không trung thực hoặc lợi dụng thủ tục phục hồi, phá sản để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải chịu chi phí phục hồi, phá sản.
Tuy nhiên, ngân sách Nhà nước sẽ tạm ứng chi phí cho một số trường hợp được quy định trong luật.
Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tiền, tài sản thì chi phí phá sản do ngân sách Nhà nước bảo đảm.
Kinh phí chi trả tạm ứng chi phí phá sản được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của tòa án và sử dụng, tạm ứng, thanh toán theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước, pháp luật về chi phí tố tụng.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ không được tự ý cất giấu, tẩu tán tài sản, từ bỏ quyền đòi nợ, thanh toán khoản nợ, chuyển nợ hay phân chia lợi nhuận.
Trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng điều hành, doanh nghiệp, hợp tác xã có dấu hiệu vi phạm quy định thì thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật theo đề nghị của ban đại diện chủ nợ, hội nghị chủ nợ hoặc quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Đối với thủ tục phá sản rút gọn sẽ áp dụng khi doanh nghiệp, hợp tác xã có từ 20 chủ nợ không có bảo đảm trở xuống và có tổng các khoản nợ gốc phải thanh toán từ 10 tỷ đồng trở xuống; doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ; không tài sản hoặc còn tài sản nhưng không thanh lý, thu hồi được hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, thanh toán chi phí phá sản.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản, Luật quy định: Hướng dẫn, yêu cầu người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của họ là có căn cứ và hợp pháp; kiểm tra, thẩm định tính xác thực của tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc phục hồi, phá sản; quyết định áp dụng thủ tục phục hồi rút gọn, quyết định áp dụng thủ tục phá sản rút gọn; quyết định chỉ định hoặc thay đổi quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Giám sát hoạt động của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi giải quyết phục hồi, phá sản...